image banner

Triển khai chương trình kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bình Dương

0:00 / 0:00
Ngọc Hoa - Đọc báo
Cỡ chữ: A+ A A- In bài viết: 🔼Tăng tương phản 🔽Giảm tương phản
Lượt xem: 15

Tổng quan về di sản văn hóa phi vật thể dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Năm 2023, Bảo tàng Bình Dương triển khai thực hiện chương trình kiểm kê, lập danh mục di sản văn hóa phi vật thể dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Qua kiểm kê, khảo sát 37/91 xã/phường/thị trấn, kết quả kiểm kê cho thấy, toàn tỉnh Bình Dương hiện nay có 266 cá nhân nắm giữ, thực hành dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Trong đó tập trung đông nhất tại Thủ Dầu Một (103 người), Thuận An (62 người) và Phú Giáo (51 người). Đây là những địa phương có cộng đồng người Hoa, người Khmer cư trú đông và tập trung vì vậy còn gìn giữ, bảo lưu được các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, trong đó có dân ca, dân vũ, dân nhạc và văn học dân gian.

Toàn tỉnh hiện nay có 12 đội, nhóm dân ca, dân vũ, dân nhạc của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó có 3 đội/nhóm hát Then tại thị trấn Phước Vĩnh, xã An Linh, xã Tân Hiệp đều thuộc huyện Phú Giáo; 01 đội múa Tắc Xình của người Sán Chỉ tại xã Tam Lập, huyện Phú Giáo; 01 đội văn nghệ đồng bào Khmer tại phường Bình Hòa, thành phố Thuận An; 05 đội múa Hẩu của người Hoa; 01 đội Lân Sư Rồng của người Hoa và 02 đội nhạc lễ Triều Châu của người Hoa tại phường Lái Thiêu (Thuận An) và phường Phú Cường (Thủ Dầu Một). Bên cạnh đó, có 8 dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương hiện nay có người biết và thực hành các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống, bao gồm: dân tộc Khmer, Sán Chỉ, Mường, Tày, Thái, Nùng, Hoa và Thổ. Trong đó dân tộc Hoa hiện nay có nhiều người thực hành nhất với 140 người, 07 đội, lưu giữ được cả ba loại hình là dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống. Riêng văn học dân gian, chỉ có cộng đồng người Hoa tại Thủ Dầu Một, Lái Thiêu gìn giữ và lưu truyền các truyền thuyết, câu chuyện kể về các vị thần, thánh bảo hộ của cộng đồng.

Căn cứ vào kết quả kiểm kê trên, ngày 04/04/2025, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định số 190/QĐ-SVHTTDL về việc phê duyệt, công bố Danh mục kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dân ca, dân vũ, dân nhạc và văn học dân gian của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương (tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2024). Danh mục bao gồm 6 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 2 di sản thuộc loại hình Ngữ văn dân gian gồm: 1. Dân ca truyền thống của cộng đồng người Khmer xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; 2. Văn học dân gian của cộng đồng người Hoa tỉnh Bình Dương và 3 di sản thuộc loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian gồm: 1. Nghệ thuật hát Then của người Tày, Thái, Nùng tỉnh Bình Dương; 2. Nghệ thuật múa Hẩu của người Hoa tỉnh Bình Dương; 3. Nghệ thuật múa Tắc Xình của người Sán Chỉ tỉnh Bình Dương; 4. Nhạc lễ Triều Châu của người Hoa tỉnh Bình Dương.

anh tin bai

                                Một bài trình diễn của đội múa Hẩu  - Ảnh: Tác giả

Dân ca truyền thống của cộng đồng người Khmer xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Thuộc loại hình Ngữ văn dân gian, là di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với đời sống của cộng đồng người Khmer cư trú tại xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Nhóm dân tộc thiểu số Khmer tại xã An Bình, cùng với dân tộc Stiêng, Mạ là những dân tộc bản địa của Bình Dương, cư trú chủ yếu trong rừng, men dọc theo những con suối lên mãi tới những vạt rừng suối thuộc địa phận xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước ngày nay. Đến năm 1959, nhằm tách các nhóm dân tộc ít người ra khỏi địa bàn cư trú truyền thống của họ là rừng núi, cắt đứt sự liên hệ, tiếp tế của đồng bào dân tộc với cơ sở cách mạng, chính quyền Sài Gòn đã di cư cộng đồng người Khmer từ Tân Lập (Đồng Phú, Bình Phước) xuống Nước Vàng, hiện thuộc xã An Bình, huyện Phú Giáo ngày nay.

Là cộng đồng sống tập trung và có truyền thống lâu đời, các loại hình dân ca, dân vũ, dân nhạc của người Khmer trước đây khá phong phú, vừa gắn với cộng đồng, với nghi lễ vòng đời, vừa gắn với lao động sản xuất. Với những khó khăn trong thời gian chiến tranh, do những tiếp biến văn hóa khi sống cùng người Kinh và thiếu môi trường thực hành trong một thời gian dài, nhiều thể loại dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian của người Khmer đã bị mai một và chỉ còn tồn tại trong ký ức của những người lớn tuổi. Qua quá trình khảo sát, những thể loại có thể khôi phục thực hành được như Hát ru con gồm những bài hát ứng tác với giai điệu nhẹ nhàng xen những tiếng à ơi để dỗ đưa em bé vào giấc ngủ; Hát đối đáp cũng là loại hình ứng tác từ làn điệu cho tới câu từ, thường được thực hành trong lao động sản xuất, trong các cuộc vui, khi hội hè, đình đám, nhất là trong những dịp thanh niên nam nữ tập trung đông đảo; Hát làm mai do ông mai thực hiện khi nhà trai tới rước dâu tại nhà gái, ông mai sẽ hát những bài hát với nội dung cơ bản là những lời hay ý đẹp, chúc cho hai gia đình được dâu hiền rể quý, sớm sinh được con trai, con gái... Ông mai sẽ hát đến khi nào nhà gái thấy đủ hay, đủ ý nghĩa thì sẽ mở cửa cho nhà trai đi vào đón dâu; Hát đám cưới do đội hát hát những bài mang ý nghĩa đẹp, chúc cho hôn nhân bền chặt, hạnh phúc dài lâu theo các đợt cột chỉ tay mà người tới dự đám cưới cột cho cô dâu chú rể. Đặc biệt nhất là loại hình Hát tiễn linh hồn người chết: Khi gia đình có người từ 15 tuổi trở lên mất những người biết hát trong làng tập trung tại nhà cùng hát bài hát tiễn linh hồn người đã khuất. Nội dung bài hát kể về những câu chuyện và sự kiện liên quan đến người mất, vì vậy cách hát vừa kể vừa hờ, vừa dùng dao cùn gõ với nhau để giữ nhịp. Thời điểm hát vào các buổi tối, trong khoảng 3-5 ngày, từ khi liệm cho tới động quan thì thôi. Trước khi bắt đầu hát, người trong đội sẽ thắp 1 cây nhang và hát cho đến lúc nhang tàn. Những người tới viếng người chết cũng thường cúng một bài hát. Họ sẽ bỏ tiền cho đội hát và đội hát sẽ hát trong thời gian một cây nhang.

Văn học dân gian của cộng đồng người Hoa, tỉnh Bình Dương

Thuộc loại hình Ngữ văn dân gian, chủ thể văn hóa là cộng đồng người Hoa tỉnh Bình Dương. Cũng như một số loại hình di sản văn hóa khác, văn học dân gian của người Hoa tỉnh Bình Dương có nguồn gốc tại cố hương Trung Quốc. Sau khi di cư tới Bình Dương vào những năm cuối đời Minh Mạng, đầu thời Thiệu Trị, những ký ức về các loại hình văn học dân gian tại quê hương được cộng đồng truyền lại cho thế hệ sau.

Qua quá trình tụ cư và phát triển, các giá trị truyền thống của người Hoa tại Bình Dương gắn liền với các thiết chế tín ngưỡng. Cùng với các cơ sở thờ tự Thiên Hậu Thánh Mẫu, ông Bổn, Quan Thánh Đế Quân… là truyền thuyết về các vị thánh này cũng được bảo lưu, gìn giữ, truyền tụng. Các truyền thuyết trên được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng thông qua phương thức truyền miệng và lưu trữ bằng văn bản trong các bài viết, công trình nghiên cứu. Không có không gian cố định; các câu chuyện có thể được kể bất kỳ lúc nào, bất kỳ người trưởng thành nào trong cộng đồng người Hoa đều nắm về các truyền thuyết này. Ngoài ra, trong các bài viết, các công trình tìm hiểu về người Hoa và văn hóa người Hoa ở Bình Dương đều đề cập đến các truyền thuyết trên như công trình “Người Hoa ở Bình Dương” do TS. Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2012.

Nghệ thuật hát Then của người Tày, Thái, Nùng tỉnh Bình Dương

Thuộc loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian, xuất hiện vào cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, gắn liền với cộng đồng người Tày, Nùng, Thái cư trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc và được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2013. Khi di cư tới Bình Dương từ khoảng những năm 1950 tới nay, một bộ phận người Tày, Nùng, Thái yêu thích bộ môn này đã tập hợp thành những nhóm, đội cùng thực hành và tham gia biểu diễn trong các chương trình văn nghệ quần chúng, văn nghệ các dân tộc thiểu số.

Then vừa là loại hình văn nghệ, vừa là một biểu hiện của tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên khi thực hành tại Bình Dương, Then đơn thuần là một loại hình văn nghệ, được thực hành trong những dịp lễ hội, gặp mặt, giao lưu, biểu diễn. Các làn điệu Then cổ mang tính trường ca, là những câu thơ trữ tình giàu tính nhạc hiện nay cũng được cải biên là những bài hát ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ để phù hợp với cuộc sống và văn hóa hiện đại. Ngoài Then, các đội còn thực hành Lượn là hình thức hát giao duyên đối đáp của người Tày, Nùng và hát Phong slư – bức thư tình được viết theo thất ngôn trường thiên bằng tiếng Tày và đôi câu Hán tự, Hán Nôm lẫn với Nôm Tày, nội dung bày tỏ tình yêu của nam, nữ viết cho nhau. Cùng với nhạc cụ không thể thiếu trong hát Then là đàn Tính (vì vậy thường gọi là hát Then – đàn Tính) và trang phục truyền thống áo dài đen, hát Then đã tạo được dấu ấn và trở thành một trong những loại hình dân ca, dân nhạc đặc trưng của cộng đồng người Tày, Thái, Nùng tại các xã ở huyện Phú Giáo. Hiện nay toàn tỉnh có 3 đội với hơn 20 người hoạt động và đều thuộc huyên Phú Giáo gồm đội Kết nối yêu thương tại xã Tân Hiệp, đội hát Then thị trấn Phước Vĩnh, và nhóm hát Then xã An Linh. Các đội hoạt động tự phát, khá ổn định song chưa nhận được nhiều sự quan tâm của chính quyền địa phương.

Nghệ thuật múa Hẩu của người Hoa tỉnh Bình Dương

Thuộc loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian, do cộng đồng người Hoa nắm giữ, thực hành và là một trong những nét văn hóa đặc sắc, tạo nên sự khác biệt của cộng đồng người Hoa tỉnh Bình Dương với cộng đồng người Hoa ở các tỉnh thành khác. Về nguồn gốc, hiện chưa rõ Hẩu xuất hiện từ bao giờ tại cố hương Trung Quốc. Chỉ biết khi người Hoa di cư tới Bình Dương từ khoảng năm 1840, múa Hẩu cũng đã được đem tới và được cộng đồng thực hành liên tục, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng và thưởng thức văn hóa của cộng đồng.

Múa Hẩu là nghệ thuật múa lốt đặc trưng của người Hoa nhóm ngôn ngữ Phước Kiến. Theo thời gian, nghệ thuật này không những bị mai một mà còn được phát triển ngày một rộng rãi. Hiện nay toàn tỉnh có ít nhất 5 đội Hẩu với trên 151 đội viên chính thức bên cạnh các đội tư nhân, tự phát. Hẩu đặc biệt từ truyền thuyết, tên gọi, cách làm, phong cách biểu diễn và chức năng… Không như những linh vật đem đến điềm lành, Hẩu là thú dữ được Phước Đức Chánh Thần thu phục (theo lý giải của họ Lý), là Quy – Xà tướng quân đắc lực của Huyền Thiên Thượng Đế (theo truyền thuyết của họ Vương), là linh vật trừ tà và chỉ xuất hiện để phục vụ nghi lễ, không phải loại hình phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí. Các động tác múa của Hẩu được mô phỏng từ động tác và tập tính của loài Hổ: dáng đi khoan thai hùng dũng; lăn, trườn, phóng chứ không leo trèo; gặp con mồi sẽ di chuyển, áp sát và vờn đến khi con thịt kiệt sức… Điểm đặc biệt của múa Hẩu đó là do mặt Hẩu dẹt, người múa không thể dùng đầu đỡ một phần trọng lượng mà phải hoàn toàn dùng tay nâng mặt Hẩu do đó tạo được uy thế từ trên cao nhìn xuống rất trấn áp, uy dũng khác thường.

Là linh vật trừ tà, múa Hẩu hầu như chỉ được thực hiện trong các nghi lễ như lễ hội rằm tháng Giêng tại Chùa Bà, hộ tống cộ Bà tuần du quanh khu vực chợ Thủ Dầu Một; lễ hội chùa Ông Bổn, lễ cúng Tổ… Múa Hẩu là di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu cho cộng đồng người Hoa nhóm ngôn ngữ Phước Kiến tại Bình Dương. Mặc dù nhóm ngôn ngữ Phước Kiến cư trú ở khá nhiều tình thành như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai… song không duy trì được loại hình nghệ thuật này. Vì vậy, Hẩu tạo nên nét đặc trưng và sự khác biệt của văn hóa nhóm với các nhóm ngôn ngữ khác của người Hoa ở trong tỉnh và văn hóa người Hoa ở Bình Dương với người Hoa ở các tỉnh thành khác trong khu vực.

Nghệ thuật múa Tắc Xình của người Sán Chỉ[2] tỉnh Bình Dương

Thuộc loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian do cộng đồng người Sán Chỉ, Cao Lan thuộc xã Tam Lập, huyện Phú Giáo nắm giữ và thực hành. Về nguồn gốc, nghệ thuật múa Tắc Xình gắn liền với cộng đồng người Sán Chay cư trú tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Yên Bái, Thái Nguyên. Ông La Văn Bình là người có công dẫn dắt anh em, làng xóm từ xã Đồng Tâm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên tới định cư tại xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương từ sau năm 1990 và cũng là người khởi xướng việc duy trì các nếp sinh hoạt văn hóa tại quê hương tại vùng đất mới, trong đó có việc thực hành điệu múa Tắc Xình trong nghi lễ cầu mùa tổ chức vào đầu năm mới.

Múa Tắc Xình có 9 động tác là 9 “hoạt cảnh” mô phỏng đời sống của người Sán Chỉ để thấy được quá trình tìm kiếm miền đất hứa, dựng làng và những công việc trong đời sống lao động, sản xuất, sinh hoạt của người Sán Chỉ. So với điệu múa tại quê hương, điệu múa Tắc Xình tại Tam Lập có một số biến đổi và giản lược phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Khi có hiệu lệnh, người gõ tay trái cầm ống tre, tay phải cầm thanh tre nhỏ gõ ngang hai lần liên tiếp vào thân ống tạo nên âm “tắc, tắc”, rồi gióng mạnh ống tre xuống đất phát ra tiếng kêu “xình”. Tiếng nhạc gõ liên tục không ngừng nghỉ tạo thành nhịp điệu của bước nhảy và âm thanh tạo thành chuỗi “Tắc-tắc-xình, tắc-tắc-xình…” Trong vòng âm thanh liên hồi đó, những người nhảy thể hiện động tác khỏe mạnh, nhịp nhàng mô phỏng động tác trong các hoạt động sản xuất lao động của người Sán Chỉ. 

Nhạc lễ Triều Châu của người Hoa tỉnh Bình Dương

Thuộc loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian, do cộng đồng người Hoa tỉnh Bình Dương nắm giữ và thực hành. Là cộng đồng có dân số đông thứ hai ở tỉnh Bình Dương, sống tập trung và có cách thức gìn giữ văn hóa độc đáo, người Hoa lưu giữ được nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể có nguồn gốc từ cố hương Trung Quốc, trong đó có Nhạc lễ Triều Châu.

Nhạc lễ Triều Châu là nghệ thuật trình diễn dân gian dân nhạc đặc trưng của người Hoa nhóm ngôn ngữ Triều Châu. Đây là hình thức dùng tiếng nhạc để ca ngợi công tích và gửi những lời mong ước của người dân lên các vị thần linh. Nhạc lễ Triều Châu có nguồn gốc từ Nhã nhạc – loại nhạc vũ mà các vị đế vương của Trung Hoa cổ đại dùng để tế tự trời đất, tổ tiên và trong các dịp triều hạ, yến thưởng. Ngay từ thời Thương, Chu, tư tưởng “dĩ nhạc trị quốc” của Nho gia đã rất thịnh hành, ý nghĩa chủ yếu của “nhạc” chính là công cụ giáo hóa con người và thống trị con người. Nhã nhạc là loại hình “trung chính hòa bình”, “khúc nhã thuần chính” nên được lấy làm điển phạm của âm nhạc[3]. Sau mấy ngàn năm phát triển, Nhã nhạc có nhiều trường phái, trong đó có trường phái Triều Châu. Bài Liễu Thanh Nương (柳青娘) tuy không thuộc thập đại danh khúc nhưng cũng là một trong những bài nổi tiếng, phổ biến trong dòng cổ nhạc Trung Hoa.

Đúng như tên gọi, nhạc lễ Triều Châu chỉ được sử dụng trong các nghi lễ, là một phần của nghi lễ, để phục vụ thánh thần. Nhạc lễ Triều Châu không phải là âm nhạc làm nền được tấu lên khi thực hành nghi lễ mà nó là tiết mục riêng, thường được cử hành vào đầu nghi lễ, kéo dài từ 30 phút – 60 phút. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 3 đội nhạc lễ Triều Châu với gần khoảng 70 người thực hành, trong đó có 01 đội nhạc lễ do người Kinh thực hành tại phường Tân Phước Khánh (Tân Uyên), còn lại 02 đội là đội Cổ nhạc Triều Châu của nhóm cộng đồng Triều Châu tại Thủ Dầu Một với 40 thành viên và Ban nhạc lễ chùa Bà Lái Thiêu (Thuận An) với 12 thành viên. Hàng năm, đội Cổ nhạc Triều Châu thường thực hành vào các buổi lễ: lễ hội rằm Tháng Giêng tại các cơ sở thờ tự Thiên Hậu Thánh Mẫu và được một số đình của người Kinh mời tấu trong lễ Kỳ yên như đình Dĩ An (Dĩ An), đình Phú Long (Thuận An), đình thần Phú Cường (Thủ Dầu Một)… Loại hình này được duy trì ổn định, không có nguy cơ mai một.

Công bố Danh mục kiểm kê Di sản văn hóa phi vật thể dân ca, dân vũ, dân nhạc và văn học dân gian của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương là một trong những bước quan trọng để nhận diện, xác định giá trị các di sản văn hóa phi vật thể về dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Dương, làm cơ sở để định hướng bảo tồn, phát huy các di sản này trong thời gian tới, phục vụ tốt hơn cho Kế hoạch số 3856/KH-UBND ngày 29/7/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2022 – 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Dương”, đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị văn học dân gian của các dân tộc thiểu số đến năm 2030” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đây cũng là cơ sở để lập hồ sơ những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia trong những năm sắp tới.



[2] Sán Chỉ và Cao Lan là hai nhóm dân tộc thuộc Sán Chay. Theo biến âm của thổ ngữ khác nhau, các tên gọi Sán Chí, Sán Chỉ, Sán Chay đều có nghĩa là “người núi” (sơn tử). Ở đây, vì cộng đồng tự nhận là người Sán Chỉ nên lấy tên dân tộc theo cách gọi của cộng đồng.

ĐỖ THANH-Bảo tàng tỉnh

Đánh giá - Nhận xét

  • 0
  • 0
  • 0
  • 0
  • 0

  image advertisement

image advertisement

image advertisement

image advertisementimage advertisement

image advertisement

image advertisement

image advertisement
image advertisement

image advertisement

image advertisement
                     
    
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1