Nhận diện cơ hội và thách thức trong quá trình thực hiện chuyển đổi số ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1. Một số chủ trương, chính sách về CĐS trong lĩnh vực VHTT&DL
Trong những năm gần đây, CĐS đã được đề cập nhiều trong các văn bản chính trị, pháp lý của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu: “Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước;… đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại”.
Ảnh: Minh họa
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CĐS, nhất là Chương trình CĐS quốc gia, Bộ VHTT&DL đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" theo Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 và “Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030” theo Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 02/12/2021. Theo thẩm quyền, Bộ VHTT&DL ban hành Quyết định số 3570/QĐ-BVHTTDL ngày 21/12/2022 về việc phê duyệt Đề án "Ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch thông minh, thúc đẩy du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn".
Ở phạm vi và cấp độ địa phương, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về CĐS phù hợp với yêu cầu thực tiễn, UBND tỉnh phê duyệt Kế hoạch CĐS tỉnh Bình Dương giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, lĩnh vực VHTT&DL được xác định ưu tiên để thực hiện CĐS với 03 nhóm nhiệm vụ cụ thể: (1) Triển khai số hóa toàn bộ điểm đến, sản phẩm du lịch của tỉnh; bản đồ số dịch vụ du lịch; triển khai cổng thông tin du lịch và hệ thống thông tin quản lý liên quan đến du lịch; (2) Triển khai số hóa các di sản văn hóa, các khu di tích lịch sử, văn hóa trọng điểm trên địa bàn tỉnh kết hợp ứng dụng công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường (VR/AR) tăng sức hấp dẫn, trải nghiệm của người dân, khách du lịch; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại các điểm đến di tích lịch sử, văn hóa, du lịch; triển khai ứng dụng thuyết minh du lịch tự động trên thiết bị di động thông minh bằng tiếng Việt và các ngôn ngữ phổ biến khác; (3) Tăng cường xây dựng, quảng bá hình ảnh, văn hóa con người Bình Dương, các sản phẩm văn hóa, lịch sử, thành tựu phát triển trên không gian mạng. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Bình Dương đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về CĐS (Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 19/5/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy), Nghị quyết đã xác định rõ: “Chuyển đổi số là xu thế tất yếu của sự phát triển, là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tạo ra sự đột phá trong phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và phát triển bền vững của tỉnh… Chuyển đổi số lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, hướng đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp”.
Theo chức năng, nhiệm vụ, Sở VHTT&DL đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng và ban hành các Kế hoạch số 4628/KH-UBND ngày 14/09/2021 về việc triển khai thực hiện Chương trình chuyển đổi số ngành Thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Kế hoạch số 3472/KH-UBND ngày 11/7/2023 thực thực hiện Đề án "Ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch thông minh, thúc đẩy du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn" trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 6754/KH-UBND ngày 26/12/2023 triển khai chương trình bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa và số hóa di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Dương đến năm 2030. Qua đó, nhằm tạo cơ sở để thực hiện CĐS trên các lĩnh vực VHTT&DL đảm bảo theo định hướng của Trung ương, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh.
2. Chuyển đổi số trong lĩnh vực VHTT&DL - Những kết quả bước đầu
Thời gian qua, Sở VHTT&DL đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản nhằm tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý và tổ chức triển khai các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ về CĐS đã được các cấp thẩm quyền phê duyệt, trong đó có Chương trình CĐS ngành VHTT&DL tỉnh Bình Dương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được ban hành theo Kế hoạch số 67/SVHTTDL-KH ngày 29/8/2022. Các nhiệm vụ, giải pháp CĐS của ngành nhằm hướng tới 02 mục tiêu mang tính căn bản, đó là CĐS phục vụ công tác quản lý nhà nước và tổ chức các hoạt động sự nghiệp.
Ảnh: Dữ liệu của ngành VHTT&DL trên Trung tâm giám sát, điều hành thông minh tỉnh Bình Dương (IOC)
Đối với công tác quản lý nhà nước, trọng tâm là phục vụ công tác cải cách hành chính, CĐS được xác định và thực hiện theo phương châm lấy “người dân và doanh nghiệp” làm chủ thể trung tâm để phục vụ ngày càng tốt hơn như: Tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch hành chính thông qua dịch vụ công trực tuyến; tiếp nhận và xử lý kịp thời các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các lĩnh vực của ngành thông qua hệ thống đường dây nóng 1022; phối hợp cập nhật dữ liệu của ngành trên Trung tâm giám sát, điều hành thông minh tỉnh Bình Dương (IOC); phát huy hiệu quả công tác truyền thông trên Trang thông tin điện tử của Sở tại địa chỉ https://sovhttdl.binhduong.gov.vn; triển khai chữ ký số đến lãnh đạo Sở, lãnh đạo các phòng, đơn vị sự nghiệp,… Bên cạnh đó, hạn chế tối đa việc sử dụng văn bản giấy trong việc trao đổi, trình duyệt; đổi mới nội dung và hình thức trình bày các báo cáo bằng trình chiếu Video Clip, tạo mã QR tài liệu phục vụ tổ chức các hội nghị; phối hợp triển khai các ứng dụng các phần mềm quản lý công tác tổ chức cán bộ; thanh tra, kiểm tra; kế hoạch tài chính; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý du lịch;... qua đó giúp cho việc giải quyết, xử lý công việc cũng như chia sẻ, kết nối liên thông cơ sở dữ liệu giữa các đơn vị trong và ngoài ngành được thuận lợi, nhanh chóng và chính xác, từng bước làm thay đổi phương thức chỉ đạo, quản lý và điều hành.
Đối với việc tổ chức các hoạt động sự nghiệp, đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền trên bảng điện tử (Led) về các sự kiện chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Tỉnh và các địa phương. Ứng dụng công nghệ số trong dàn dựng, biểu diễn nghệ thuật, góp phần giúp Đoàn nghệ thuật tỉnh Bình Dương tham gia và đạt thành tích cao tại nhiều hội thi, hội diễn, liên hoan văn hóa nghệ thuật toàn quốc, khu vực trong thời gian qua. Thư viện tỉnh đã thực hiện số hóa 2.259 tên sách/452.783 trang tài liệu xuất bản trước năm 1975; xây dựng cơ sở dữ liệu số địa chí Bình Dương. Bảo tàng tỉnh đã nhập thông tin trên phần mềm của Cục Di sản Văn hóa (Bộ VHTT&DL) với 795/22.243 hiện vật đang lưu giữ. Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể thao tỉnh triển khai ứng dụng phần mềm quản lý hồ sơ đối với 133 HLV, 822 VĐV các tuyến; chấm điểm bằng phần mềm trực tuyến một số môn thi đấu thể thao,… giúp cho công tác quản lý, giám sát và tổ chức thi đấu được thuận lợi, hiệu quả. Đặc biệt, năm 2022, triển khai App Du lịch Bình Dương trên thiết bị di động thông minh của 2 nền tảng: IOS và Android với hơn 64 chức năng tiện ích phục vụ người dùng; số hóa dữ liệu du lịch Bình Dương 3600 tại một số khu, điểm du lịch; duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của website du lịch Bình Dương tại địa chỉ https://dulichbinhduong.org.vn. Ngoài ra, các đơn vị trong ngành thời gian qua cũng đã thiết lập các trang Fanpage nhằm đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, quảng bá các sự kiện VHTT&DL.
3. Một số vấn đề khó khăn, thách thức đang đặt ra
Trước hết, CĐS nhanh hay chậm, thành công hay không thành công phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tư duy, nhận thức với vai trò chủ thể là con người. Chính vì vậy, nhận thức đóng vai trò quyết định trong thực hiện CĐS. Việc tham gia vào tiến trình CĐS của ngành VHTT&DL đòi hỏi mỗi CC,VC, NLĐ cần có sự nhận thức, hành động một cách tích cực, đầy đủ về tính cấp thiết, vai trò, ý nghĩa của CĐS đối với sự phát triển KT-XH nói chung và đối với ngành nói riêng, nhất là trong giai đoạn Bình Dương đang phấn đấu xây dựng trở thành tỉnh phát triển bền vững theo hướng thông minh, văn minh và hiện đại.
Về nhân lực, đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ công tác CĐS của ngành hiện nay vẫn còn thiếu, nhất là đội ngũ làm công tác chuyên trách trong lĩnh vực CNTT vẫn còn ít so với yêu cầu của một Sở đa ngành, đa lĩnh vực. Mặt khác, do tính chất và đặc điểm của ngành không trực tiếp nghiên cứu, sản xuất ra công nghệ mới từ việc vận dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0, song thực tế lại rất cần các sản phẩm công nghệ để áp dụng trong quá trình tác nghiệp, trong khi đó trình độ, năng lực tiếp cận, ứng dụng KHCN nói chung và CNTT nói riêng vẫn còn ở một mức độ nhất định.
Về vật lực, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, trong đó có hạ tầng CNTT phục vụ CĐS của ngành vẫn chưa tương xứng, đồng bộ. Một số đơn vị sự nghiệp trực thuộc như: Thư viện, Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Xúc tiến Du lịch hiện vẫn đang sử dụng các trụ sở làm việc cũ, cơ sở vật chất xuống cấp, trang thiết bị lạc hậu. Đối với Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể thao Tỉnh đến nay vẫn còn các hạng mục đang trong quá trình hoàn thiện;… do đó công tác quản lý, khai thác sử dụng vẫn còn đứng trước những khó khăn, thách thức.
Về tài lực, nguồn lực tài chính phục vụ triển khai các nhiệm vụ CĐS của ngành VHTT&DL nhìn chung vẫn chưa đáp ứng so với nhu cầu. Việc đầu tư hạ tầng CNTT phục vụ CĐS số đòi hòi cần có nguồn vốn lớn, trong khi ngân sách nhà nước bố trí đầu tư còn ở mức độ “khiêm tốn”, trong đó kinh phí thực hiện một số nhiệm vụ CĐS theo kế hoạch bị cắt giảm. Măt khác, việc mua sắm tập trung máy móc, trang thiết bị CNTT hiện nay phải trải qua nhiều quy trình, thủ tục hành chính, điều này đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu suất, tiến độ triển khai các dự án.
4. Một số giải pháp thúc đẩy CĐS trên các lĩnh vực VHTT&DL
Thứ nhất, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nêu cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể trong từng cơ quan, đơn vị của ngành về việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đến đảng viên, CC,VC, NLĐ về vai trò, sự cần thiết, tính cấp bách của việc thực hiện CĐS, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu và thường xuyên. Vì vậy, cần có sự quan tâm, quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong phạm vi cơ quan, đơn vị của ngành, trong đó đòi hỏi sự chủ động, tích cực của từng đơn vị được giao chủ trì thực hiện các nhiệm vụ đã được xác định trong các chương trình, kế hoạch, đề án về CĐS đã được phê duyệt; đồng thời phải thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá, qua đó nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách CĐS trên các lĩnh vực của ngành phát huy hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, phối hợp tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn về CNTT, CĐS, kỹ năng về CĐS, phát triển chính quyền số nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức, trình độ cho CC,VC, NLĐ của ngành; vận dụng, áp dụng các chế độ chính sách hỗ trợ, khuyến khích, khen thưởng kịp thời cho những cá nhân, đơn vị có những đóng góp tích cực liên quan đến các giải pháp ứng dụng CNTT, CĐS trong hoạt động tác nghiệp phục vụ công tác quản lý nhà nước và tổ chức các hoạt động sự nghiệp của ngành. Từ đó, từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế về khả năng tiếp cận và ứng dụng CNTT cũng như tạo điều kiện để CC,VC, NLĐ phát huy năng lực, sở trường.
Thứ ba, đề xuất, kiến nghị các cấp thẩm quyền tiếp tục quan tâm, đầu tư xây dựng các công trình văn hóa, thể thao trọng điểm để sớm hoàn thiện và đưa vào hoạt động, nhất là trụ sở làm việc của một số đơn vị sự nghiệp trực thuộc cần được xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại. Xác định rõ mục tiêu, ưu tiên bố trí nguồn lực để tập trung thực hiện đồng bộ nền tảng hạ tầng CNTT phục vụ CĐS dựa trên cơ sở có sự kế thừa, phát triển từ các nền tảng hạ tầng sẵn có. Quan tâm, chú trọng đến các giải pháp về an ninh, an toàn thông tin, qua đó nhằm đảm bảo cho việc kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, do đó việc tạo lập cơ sở dữ liệu của ngành được xem là bước đi đầu tiên, sự chuẩn bị cần thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển chính quyền số của Tỉnh. Các dữ liệu số sẽ giúp cho việc xác định mô hình hoạt động số và tiến hành CĐS trên các lĩnh vực của ngành được thống nhất và đồng bộ. Vì vậy, cần tiếp tục quan tâm, đẩy mạnh triển khai CĐS trên cả 3 trụ cột: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Qua đó, nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành cũng như tổ chức các hoạt động sự nghiệp ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động trao đổi, hợp tác giữa các đơn vị, địa phương trong nước và quốc tế về CĐS trên các lĩnh vực ngành. Tuy mỗi địa phương đều có những tiềm năng, thế mạnh khác nhau để thực hiện CĐS, song việc học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm là rất cần thiết. Đặc biệt là việc tận dụng và phát huy lợi thế khi Bình Dương đã trở thành thành viên của Hiệp hội Đô thị Khoa học thế giới (WTA) hiện có hơn 100 thành viên là các đô thị của gần 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với nhiều kinh nghiệm trong CĐS. Vì vậy, thông qua các sự kiện, diễn đàn của tổ chức này cần chuyển những “thách thức” thành “cơ hội” để đưa các lĩnh vực VHTT&DL ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Như vậy, việc thực hiện CĐS trên các lĩnh vực VHTT&DL suy cho cùng đều hướng đến mục tiêu phục vụ người dân và doanh nghiệp, trong đó Nhà nước đóng vai trò là chủ thể kiến tạo. Với cách tiếp cận này, có thể thấy mục đích, ý nghĩa chính của việc thực hiện CĐS nhằm tạo sự thay đổi về phương thức quản lý và tổ chức các hoạt động sự nghiệp VHTT&DL dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số, trong đó yếu tố con người mà cụ thể là CC,VC, NLĐ của ngành đóng vai trò quyết định, có sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp cận, ứng dụng ở các mức độ nhanh hay chậm, thành công hay không thành công. Do đó, CĐS cần phải được nhận thức đầy đủ và tích cực hành động, nhất là trong khâu tổ chức thực hiện nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền theo hướng chuyên nghiệp, đồng thời tạo ra những tiện ích phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
Thế Thuật (VPS)